Các nghiên cứu cho thấy DIOXIGUARD và DIOXIDERM, là ClO2 hoặc có chứa ClO2, là 2 trong số các sản phẩm có hiệu ứng diệt khuẩn nhanh nhất. Trong phòng thí nghiệm, thời gian diệt toàn bộ các loại vi khuẩn, virus, kể cả nấm chưa đến 1 phút. Hiệu ứng diệt khuẩn này diễn ra với trực khuẩn, trùng amíp và bào tử (không sấy khô). Vậy DIOXICURE và DIOXIGUARD diệt khuẩn như thế nào? Và tại sao chúng lại an toàn?

Chlorine dioxide diệt khuẩn với nồng độ thấp có thể bằng cách phá vỡ quá trình tổng hợp protein và vô hiệu hóa các enzyme. Cơ chế này cũng diễn ra ở 1 số kháng sinh an toàn khác. Quá trình oxy hóa RNA và DNA không diễn ra, hoặc chí ít là không đóng vai trò chính. Tác dụng hủy diệt diễn ra tại thể dung dịch của tế bào và không gây tổn hại cho các thành phần cấu trúc tế bào chẳng hạn như ribosome. Bringmann đã vẽ lại các lưu đồ điện tử của các tế bào được xử lý bằng chlorine ngay sau khi tiếp xúc và quan sát không thấy có sự thay đổi nào trong các tế bào, giống như khi xử lý các tế bào bằng bromine và iodine. Với liều cao, chlorine dioxide diệt khuẩn bằng cách làm mềm và phá hủy thành tế bào hoặc vỏ protein của virus. Tế bào người không có các thành tế bào tương tự nên không bị ảnh hưởng. Da và cơ thể người được bảo vệ khỏi các phản ứng oxy hóa của ClO2 bằng nhiều chất khử sẵn có trong tế bào và máu chẳng hạn như catalase, glutathione, superoxide dismutase, vitamin E, C, A, B complex, acid uric, kẽm và selenium. Bên trong cơ thể, có lẽ cũng diễn ra cơ chế tương tự giúp cơ thể tự bảo vệ khỏi mối nguy hại từ các gốc oxy tự do. Vi khuẩn và virus không có hầu hết các chất khử tương tự.

Do ClO2 vừa là 1 chất oxy hóa mạnh, vừa là 1 gốc tự do, nó mau chóng trung hòa các phân tử phản ứng và các gốc oxy tự do như NO, O2, H2O2, HClO, và OH được các đại thực bào trong cơ thể sinh ra. Các hợp chất có chứa oxy này được giải phóng khi cơ thể bị stress hay viêm nhiễm làm cho đau, sốt. Một số chất khác gây khó chịu có trong vết thương cũng được oxy hóa hoặc khử tương tự như leukotriene, TNF và interleukin. Tính chất trung hòa và diệt khuẩn hoàn toàn của ClO2 làm cho DIOXIDERM và DIOXIGUARD trở thành các loại thuốc trị thương lý tưởng. Không giống như các hợp chất iodine, quá trình chữa lành vết thương không bị cản trở. Các bác sỹ thú y đã sử dụng các thuốc này để điều trị áp xe và các vết thương sâu trên hổ, voi, chó, mèo đều cho kết quả điều trị xuất sắc. DIOXIDERM GEL cũng cho những kết quả tương tự trên các vết loét do tiểu đường (hoặc các vết loét không có khả năng lành) trên người. Nếu cơ thể người có thể sản xuất được chlorine dioxide như hypochlorite, hydrogen peroxide và superoxide, con người cũng có khả năng tự chữa lành vết thương như vậy.

ClO2 vừa có thể hòa tan, vừa có phân tử nhỏ so với các chất diệt khuẩn hữu cơ thông dụng khác. ClO2 cũng vừa là khí vừa là phi ion. Nhờ vào tính chất này, ClO2 dễ dàng xâm nhập qua da và thành tế bào của vi khuẩn. Công thức của 1 hỗn hợp chứa ClO2 tham gia vào quá trình diệt khuẩn cũng là điều thú vị để tìm hiểu. Cấu trúc electron của phân tử ClO2,về lý thuyết, cho phép ClO2 kết hợp với các chất khác. Chẳng hạn, ClO2 sẽ hydrate hóa với nước, và cũng có thể hình thành các hợp chất có ion chlrorite (ClO2 hoặc ClO2). Một hỗn hợp có màu đậm, C2O4, được hình thành khi ClO2 hòa tan vào dung dịch barium chlorite. Người ta cũng ghi nhận bằng chứng cho thấy nếu trong thành phần thuốc sát trùng có nhiều chất oxy hóa, thì các chất này sẽ phản ứng đồng bộ và cùng vô hiệu hóa các tế bào vi sinh, chẳng hạn như khi acid chlorous cùng tồn tại với chlorine dioxide.

Cũng giống như thuốc tẩy gia dụng có thành phần hypochlorous acid và chlorine, trong đó hypochlorous acid là hoạt chất diệt khuẩn chính, khi chlorous acid tồn tại chung với chlorine dioxide, chlorous acid có hoạt tính phản ứng mạnh hơn chlorine dioxide. Trường hợp sản phẩm DIOXIDERM GEL, Frontier duy trì nồng độ của acid chlorous vì khi các thành phần A & B được trộn chung với nhau, các phân tử acid chlorous kém bền được sinh ra nhưng không đủ cơ động trong ma trận gel đặc. Các phân tử chlorous vì vậy sẽ không dễ dàng kết hợp và làm bay hơi chlorine dioxide như trong môi trường chất lỏng. Gia tăng nồng độ acid chlorous cũng có thể là lý do làm cho thuốc trị thương và chữa bỏng dạng gel có hiệu ứng diệt khuẩn nhanh hơn. Tài liệu nghiên cứu hóa học cho thấy hỗn hợp chlorite / acid giải phóng ClO2 có độ oxy hóa cao hơn nhiều lần so với 100% ClO2 ở cùng pH. Mặt khác, loại acid kích hoạt để sản xuất phân tử acid chlorous có thể cũng tác động đến mức oxy hóa của ClO2, hoặc của hỗn hợp chứa ClO2. So sánh liều dùng cần thiết để giảm được 5 log ở vi khuẩn sống sau khi cho chlorine dioxide và chlorine tiếp xúc 60 giây tại các giá trị pH 6.5 và 8.562

This entry was posted in Chưa phân loại. Bookmark the permalink.
Tags :

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

0962.148.504
Nhắn tin qua Facebook Zalo: 0962.148.504 SMS: 0962.148.504